Nhắc đến tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa thì không thể nào không nhắc đến nhân vật người đàn bà hàng chài – người phụ nữ có số phận cùng cực, đau khổ. Hôm nay chúng tôi sẽ gửi đến các bạn bài viết Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa – dàn ý chi tiết và những bài mẫu hay nhất để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về nhân vật cũng như tác phẩm nhé! Cùng khám phá ngay thôi!

Dàn ý phân tích hình tượng người đàn bà làng chài

Mở bài

  • Giới thiệu Nguyễn Minh Châu
  • Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
  • Giới thiệu nhân vật người đàn bà hàng chài

Thân bài

Tên tuổi

  • Không tên tuổi cụ thể, gọi phiếm định “người đàn bà hàng chài”, “mụ”.
  • Chỉ là một người vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.

Vóc dáng ngoại hình

  • Thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”- đó là hình ảnh một con người lam lũ, mất hết sinh lực, niềm vui, sức sống.
  • Nghèo khổ, nhọc nhằn (lưng áo bạc phếch)
  • Mặc cảm, tự ti ( dáng vẻ lúng túng)

Nhà văn thể hiện nỗi xót thương cho số phận con người ngay khi miêu tả ngoại hình, dáng vẻ của nhân vật.

Số phận đau khổ, bất hạnh

Chuyển ý:

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng hàng.

  • Một người đàn bà bất hạnh, nhẫn nhục chịu đựng (người đàn bà bị đánh)
  • Người đàn bà chịu những nỗi đau khổ chồng chất: mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, chịu đựng những trận đòn của chồng, nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.

Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách.

Chuyển ý:

Tham khảo chuyển ý sau:

Đằng sau cái vóc dáng thô kệch ấy, đằng sau cái vẻ ngoài rách rưới ấy, đằng sau cái hành động nhẫn nhịn ấy người đọc còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, tính cách khuất lấp của người đàn bà hàng chài này.

Chuyển ý hay hơn:

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời ở người đàn bà rách rưới này.

Vẻ đẹp của một người từng trải sâu sắc: đẹp nhất nhưng đặc biệt nhất

  • Nguyên nhân vũ phu của người chồng: do hoàn cảnh ép buộc chứ không phải bản chất
  • Người đàn bà hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chèo chống khi phong ba bão táp ập đến.
  • Từ khi có Đảng, nhà nước cuộc sống còn bất cập: không hợp lý, không hợp lòng dân.

Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, độ lượng: thiên chức của người phụ nữ

  • Chị tự nguyện cho chồng đánh, không kêu, không chống trả, không chạy trốn => Một kẻ ngu muội chìa lưng cho chồng đánh (cái nhìn từ xa)
  • Nhìn vào tấm lưng bạc phếch (nhìn vào cái nghèo đói, đau khổ), ông ta thương vợ nên ông ta đánh vợ => biểu hiện tiêu cực.
  • Chị không trách chồng mà kéo tội lỗi về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)
  • Chị chấp nhận những trận đòn như một cách giải tỏa những bức bách, u uất trong lòng người chồng => hi sinh cao cả, chị hiểu chồng mình
  • Chị thấy trong chuyện này mình là người có lỗi.

Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng

  • “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình”

Người mẹ này vừa thương con vô cùng, khi vô tình để thằng bé Phác nhìn thấy cảnh trái ngang -> vừa đau đớn, vừa xấu hổ

  • Van nài đứa con, ôm chầm lấy nó => sợ nó hành động dại dột với bố nó.
  • Khi nhắc đến cảnh hòa thuận trên thuyền, chị hạnh phúc khi “ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”, “khuôn mặt xám xịt của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”

Kết bài

  • Cảm nghĩ của mình về nhân vật.

Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài ngắn gọn

Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như giai đoạn trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì đến giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình.

Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.

Dù chị có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh. Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miền biển.

Không chỉ vậy người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.

Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới. Chị ngồi sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hinh sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.

Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.

Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài ( mẫu 1 )

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch và “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40.

Bên cạnh đó số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.

Đồng thời, tác giả cũng khắc họa rõ nét về cuộc đời lam lũ, vất vả của người đàn bà làng chài. Tính cách: Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục. Hành động và lời nói của người chồng: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.

Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Người đàn bà ấy giàu lòng tự trọng. Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc. Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến.

Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh. Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng- cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa”… “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú… Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênhh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.

Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đẩu và Phùng chua chát nhận ra rằng: trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.

Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn.

Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả.

Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh.

Qua những cảm nhận về người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định cho chúng ta thấy sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị “khai quốc công thần của triều đại văn học mới”.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 2

Nguyễn Minh Châu – nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại, là người “mở đường tinh anh và tài hoa” văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của ông được viết sau chiến tranh, khi ấy ông đã đem văn học về gần với cuộc sống, ngòi bút của nhà văn bám sát vào hiện thực để làm nổi bật những vấn đề thế sự trong cuộc sống con người thời hậu chiến. Nhân vật người đàn bà hàng chài được tác giả khắc họa rất rõ nét và chân thực trong tác phẩm, một mặt để cho người đọc cảm nhận rõ sự thật cuộc đời, mặt khác lại thấy được những hạt ngọc đang ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam.

Giữa cảnh biển đẹp đẽ, hoàn mĩ như bức tranh mực tàu, người đàn bà hàng chài hiện lên vẻ ngoài lam lũ, tội nghiệp. Người đàn bà tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Mụ rỗ mặt và khuôn mặt hiện rõ vẻ mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và đang buồn ngủ. Ngoại hình lam lũ, tội nghiệp là vậy, khi nhìn vào cảnh ngộ của người đàn bà này ta càng thêm xót xa, thương cảm. Chị ta phải chịu nhiều bất hạnh ngay từ khi còn trẻ. Thời còn con gái chị ta đã bị rỗ mặt do một trận đậu mùa khiến cho khuôn mặt trở nên xấu xí, khó lấy được chồng. Chị ta lỡ có thai với người con trai của một nhà hàng chài, từ đó theo chồng và gắn bó với nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển.

Từ khi có gia đình, chị ta phải lăn lộn với cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất và tủi nhục về tinh thần. Vì sinh đẻ nhiều, gia đình đông con mà thuyền lại chật, có những khi biển động gió lớn cả nhà chỉ đành ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Không chỉ thiếu thốn về vật chất, chị ta còn là nạn nhân của bạo lực gia đình, thường xuyên hứng chịu những trận đòn roi vô lí của người chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chánh án Đẩu từng thốt lên rừng “cả nước không có một người chồng nào như hắn… chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.

Trong hoàn cảnh khốn cùng, nghiệt ngã như vậy nhưng người đàn bà hàng chài vẫn giữ cho mình những phẩm chất quý giá. Đó là một người mẹ với tình yêu thương con vô bờ. Trong đám con đông đúc của mình, chị ta thương thằng Phác nhất, không muốn nó chịu khổ nên phải gửi nhờ ông ngoại nuôi dưỡng. Điều đầu tiên mà chị ta mong mỏi cho các con là có cuộc sống ổn định, không phải lênh đênh, chịu bấp bênh và khổ cực trên biển. Dù cuộc sống có cơ cực chị vẫn cố gắng để các con của chị không chỉ được no đủ mà còn bảo vệ đời sống tinh thần của các con không bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Khi các con lớn, chị đã “xin chồng lên bờ mà đánh” vì chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh đau lòng đó.

Chị đã cố gắng hết sức để bảo vệ các con, thế nên khi thằng Phác lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy như chết lặng. Chị ta cảm thấy tủi nhục và đau đớn, nhát quất của chồng trên da thịt không đau bằng sự xuất hiện của thằng con trai “như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rơi xuống những dòng nước mắt. Chị ta đau vì cách hành xử của bố với mẹ đã làm tổn thương đến tâm hồn và nhân cách con trẻ, thằng bé dám thực hiện hành động độc ác ngay cả với cha đẻ ra nó là phản ứng tiêu cực.

Người đàn bà ấy còn có một tình yêu dành cho chồng sâu sắc. Vốn chị ta thương thằng Phác nhất cũng chính vì nó giống như lột cái lão đàn ông đã hành hạ chị, giống từ tính khí đến mặt mũi. Phải thừa nhận rằng cách hành xử thô bạo của chồng không làm cho chị ta thay đổi tình cảm của mình dành cho anh ta mà ngược lại vẫn nâng niu hình ảnh của người đàn ông ấy trong tình yêu của mình. Chị hiểu cho người đàn ông vì cuộc sống cơ cực nhiều bế tắc cần có cách để giải tỏa, nhưng chồng chị lại không biết uống rượu như những đàn ông khác. Dường như cách đánh vợ là cách duy nhất để giải tỏa những uất ức, chính vì thế khi con đã lớn, chị không yêu cầu chồng chấm dứt đánh những trận đòn mà chỉ xin chồng lên bờ mà đánh. Chị chấp nhận, cam chịu, nhẫn nhục để chồng có thể giải tỏa uất ức.

Ta nhìn thấy được một người đàn bà hàng chài giàu đức hy sinh vì con, vì chồng, vì gia đình. Trong cuộc sống cơ cực triền miên, chị ta luôn nhận lỗi về mình “phụ nữ trên thuyền đẻ nhiều quá”, điều đó còn bởi sự lạc hậu mà chị ta luôn miệng mong các chú cách mạng thông cảm cho. Niềm vui lớn nhất của chị là những lúc vợ chồng hòa thuận, đàn con được ăn no, đó là điều hiếm hoi nhưng người đàn bà luôn mong mỏi và trân trọng. Người đàn bà ấy đã xác định lẽ sống vì chồng, vì con, vì gia đình chứ không phải vì bản thân, quên hẳn những nhu cầu và đòi hỏi của cá nhân. Dù bị chồng đánh và đày đọa nhưng chị ta vẫn van xin không bỏ chồng, chấp nhận bị bắt tội, bị phạt tù. Nghĩa là dù người đàn ông ấy có độc ác, tàn bạo đến mấy chị vẫn cần để có người cùng chèo chống khi phong ba và hơn nữa là chị muốn giữ gìn cho các con một mái ấm gia đình trọn vẹn, đủ đầy.

Có thể nói, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa chính là người đàn bà hàng chài. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài dẫn dắt chúng ta đến với những góc tối tăm nhất của cuộc đời để nhìn nhận những sự thật gần ngay trước mắt. Trong nơi tối tăm ấy thứ ánh sáng duy nhất và đẹp đẽ nhất chính là phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người, tiêu biểu ở đây là phẩm chất cao đẹp của người đàn bà hàng chài.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 3

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu, được mệnh danh “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu thể hiện quan điểm sáng tác cùng hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của tác giả. Thông qua việc xây dựng hình tượng người đàn bà hàng chài, nhà văn đã thể hiện cái nhìn hiện thực đa chiều về đời sống con người ở phương diện bề nổi và những vẻ đẹp khuất lấp trong bề sâu của nhân vật.

Nhân vật người đàn bà hàng chài không có tên gọi cụ thể. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã không đặt tên cho nhân vật người đàn bà mà chỉ gọi phiếm chỉ bằng các đại từ: mụ, chị ta, người đàn bà. Điều này không hề khiến cho nhân vật dễ dàng bị lãng quên, mà ngược lại, cách gọi đó đã đem đến một ý nghĩa khái quát về những người có cuộc đời, số phận và phẩm chất tương tự và tạo ra kiểu “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Dưới ngòi bút của nhà văn, nhân vật hiện lên với những nét vẽ về ngoại hình: từ nhỏ đã là một người con gái xấu xí như nét vẽ vội của tạo hóa. Theo dòng chảy của cuộc đời, vẻ ngoài của người phụ nữ vẫn gắn liền với sự thô mộc: trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tập trung đặc tả một số chi tiết thể hiện điều này: khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá mang nét đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Như vậy, từ tên gọi đến ngoại hình của nhân vật đều gợi ra sự thua thiệt về nhan sắc, hé mở một số phận lam lũ, vất vả, cơ cực.

Qua những trang văn của Nguyễn Minh Châu, số phận người đàn bà hiện lên gắn liền với sự nghèo khổ về vật chất. Chị và gia đình sinh sống trên thuyền và không gian chật chội. Người đàn bà ấy đã từng tâm sự giá như “sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Vào những ngày biển động suốt tháng, toàn phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, người đàn bà còn phải gánh chịu những bi kịch về thể xác và tinh thần. Chị thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ “ba ngày một trận nhẹ, năm  ngày một trận nặng” một cách tàn nhẫn, bị chính người chồng nguyền rủa: “Mày chết đi cho ông nhờ”. Như vậy, cuộc đời của người đàn bà hiện lên với sự lam lũ, thiếu thốn, nghèo khó và bất hạnh. Tuy nhiên, vẻ đẹp của con người không chỉ được phát hiện, cảm nhận thông qua thị giác mà đôi khi lại đòi hỏi người ta phải lắng lại và cảm nhận bằng trái tim. Cũng giống như người đàn bà hàng chài, bên trong ngoại hình không mấy đẹp đẽ của con người lại ngời sáng những vẻ đẹp đáng trân trọng, giống như nội dung quen thuộc trong câu ca dao: “Thân em như củ ấu gai/ Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen”. Dưới ngòi bút cảm thông đầy tính khám phá về con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu, bên ngoài chiếc vỏ bọc xấu xí của ngoại hình, người đàn bà hàng chài đã hiện lên với vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn.

Trước hết, người đàn bà hàng chài là người mẹ yêu thương con, luôn nhẫn nhục, chịu đựng đòn roi của chồng để các con có một mái nhà có cha, có mẹ. Dù sống trong cảnh “Ba ngày một trận  nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị vẫn van xin Phùng và Đẩu: “Đừng bắt tôi bỏ nó”. Hơn ai hết, người phụ nữ lam lũ, khổ cực ấy hiểu rằng trên thuyền, cần một người đàn ông chèo lái. Trước những trận đòi roi tàn nhẫn của người chồng: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”, người phụ nữ vẫn kiên cường chịu đựng mà không hề phản kháng. Chính sức mạnh của tình yêu thương dành cho các con đã giúp người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu. Chị còn luôn cố gắng để con tránh được những tổn thương về tinh thần khi xin được lên bờ chịu đòn và gửi thằng Phát – đứa con nóng tính nhất sống với ông ngoại.

Người đàn bà ấy luôn đau đớn, dằn vặt vì không thể che chở cho tâm hồn ngây thơ của con, xót đau khi chứng kiến đứa con vì bảo vệ mẹ mà phạm phải lỗi đạo với cha. Khi chứng kiến cảnh Phác giằng lấy chiếc thắt lưng của người chồng và đánh trả, người đàn bà “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”, “Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Nguyễn Minh Châu đã đặc tả những chi tiết, hành động cụ thể để làm nổi bật lên nỗi đau của người phụ nữ khi không thể bảo vệ tâm hồn của những đứa con: “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không sống cho mình”. Như vậy, nhà văn đã tái hiện thành công hình tượng một người phụ nữ giàu đức hi sinh, ý thức rất rõ về thiên chức làm mẹ cao cả, vĩ đại và luôn nhẫn nhịn, chịu đựng vì tương lai của những đứa con.

Không chỉ là người mẹ yêu thương con, người đàn bà hàng chài là người vợ yêu thương chồng, thấu hiểu chồng và giàu lòng vị tha. Trong lời bộc bạch của chị với nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu, chúng ta có thể thấy được chị luôn mang ơn chồng: “Từ nhỏ là đứa con xấu, rỗ mặt, không ai lấy”, vì thế cuộc hôn nhân với người chồng đã đem đến cho chị niềm hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ. Dù bị đánh đập nhưng chị vẫn yêu thương chồng. Điều này không được tác giả Nguyễn Minh Châu bộc lộ trực tiếp nhưng được thể hiện gián tiếp qua chi tiết: đứa con mà chị yêu thương nhất là thằng Phát – “cái thằng từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ”. Trong hồi ức về thời trẻ, chị hiểu chồng mình là người “cục tính nhưng hiền lành lắm”; còn ở thời điểm hiện tại, chị thấu hiểu cho những vất vả, lo toan, gánh nặng trên đôi vai người chồng.  Đó là sự cảm thông với chồng vì hoàn cảnh mà tha hóa: vì nghèo khổ, túng quẫn…, lúc nào thấy khổ  quá là lão xách tôi ra đánh. Người phụ nữ đó còn giàu lòng vị tha và sự bao dung. Trước những trận đòn roi của chồng, chị tự nhận lỗi về mình: Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật; “Giá đẻ ít đi”, biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc về sự nghèo đói, lạc lậu. Hơn ai hết, chị hiểu rõ người chồng cũng là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ. Đồng thời, người phụ nữ đó luôn chắt chiu, trân trọng những khoảnh khắc vợ chồng, con cái sống hòa thuận, vui vẻ.

Bằng tài năng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện thành công cuộc sống khốn khó nhưng ngời sáng những vẻ đẹp khuất lấp trong phẩm chất, tâm hồn của người đàn bà hàng chài. Người phụ nữ vị tha, giàu lòng nhân hậu đó chính là hiện diện của cuộc sống khuất chìm sau vẻ đẹp của nghệ thuật, là sự lí giải hiện thực đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu không thể hiểu được.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 4

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy.

Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”.

Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ.

Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.

Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại.

Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 5

Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

Có thể nói, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sang sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa than phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám khá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lơn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao song gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới “lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *